MÙA XUÂN KHÔNG TRỞ LẠI
Nhân cứ nhìn trộm người đàn ông phía bên
kia kệ hàng của siêu thị. Ông ta không biết có người nhìn mình, vẫn thoải mái vừa
đẩy xe đi chợ cho vợ, vừa nói chuyện với cậu bé khoảng ba tuổi ngồi trên xe. Nhân nghe ra, đó là hai
ông cháu. Bà vợ quay lại hỏi gì đó, ông trả lời: “em muốn sao cũng được” rồi lại
tiếp tục đùa với cháu.
Ông ta không biết Nhân đang dõi theo, và Nhân cũng
không hề nghĩ mình gặp ông ta ở đây, trong thành phố rộng lớn này, trên đất nước
bao la này, trong phiên chợ gần Tết này.
Nhưng Nhân đoan chắc ông ta chính là Thành của Nhân hơn bốn mươi năm về
trước, dù bây giờ cả hai tóc đã điểm sương, tàn phai theo năm tháng. Nhất định
ông ta chính là Thành. Lúc đầu Nhân ngờ ngợ khi đi ngược chiều và khi nghe bà vợ
gọi tên ông, Nhân đã quay lại theo dõi để biết đó chính là Thành. Dù đã hơn bốn
mươi năm, Nhân tin rằng cảm giác không đánh lừa mình. Nhân đã tự chế rất nhiều
để không đến chào và hỏi phải ông ta là Thành không, chỉ âm thầm dõi theo, khi
thì sau lưng, khi thì trên dãy hàng kế bên. Nhân cũng không biết tại sao mình lại
làm như vậy, có gì tội lỗi hay xấu xa khi đến nhận người quen đâu? Và Nhân cũng
không biết mình dõi theo ông ta để làm gì. Có gì khác nhau khi ông ta chính là
Thành hay không phải là Thành? Ông ta có cuộc sống có vẻ như êm ả, hạnh phúc,
và Nhân cũng đang có cuộc sống riêng của mình. Cho dù đó là Thành thì Nhân sẽ
làm gì? Cảm giác như đông cứng, thui chột làm Nhân không tự chủ được suy nghĩ của
mình. Chỉ biết người đàn ông đó như một thỏi nam châm, và Nhân chỉ là một thanh
sắt nằm trong hấp lực, như ngày xưa Nhân cũng nằm trong hấp lực của Thành.
***
Thủa đó, cả hai cùng trong lứa tuổi mười tám, cùng học
lớp đệ nhất của trường Trung học tỉnh. Nhân là một cô gái hiền lành, nhút nhát,
lúc nào cũng ráng thu nhỏ trong đám đông, Thành lại là người rộn ràng, năng động.
Việc gì trong lớp cũng có mặt của Thành. Nhân chỉ mới vào học ở trường từ năm đệ
tam, kể từ khi gia đình nghe theo dì Ánh chuyển về tỉnh. Dì dạy ở trường tiểu học,
đưa mẹ con Nhân và bà Ngoại từ quê về tỉnh để Nhân có cơ hội học tiếp bậc trung
học. Trong lớp Nhân chỉ chơi thân với chị Trang và nhỏ Lan. Lan láu táu, có người
yêu là Hùng, bạn của Thành, chị Trang lại ở cùng phố với Thành, chỉ cách nhà
Thành có hai căn. Mấy chị em họp nhau thành một nhóm học tập từ năm ngoái.
Thành giỏi Toán nên những lúc nhóm học chung môn toán, chị Trang thường nhờ
Thành sang giúp. Môn này Nhân không khá, nhờ những lần học nhóm, Nhân thấy tự
tin hơn và kỳ thi tú tài một năm đó Nhân vượt qua môn toán không mấy chật vật.
Năm nay lên đệ nhất, môn toán khó hơn hẳn, Thành gần như có mặt thường xuyên
khi nhóm Nhân học toán. Nhân lại giỏi Pháp văn, Thành lại kém môn này. Lâu dần,
Thành gần như kèm cho Nhân môn toán và Nhân kèm lại cho Thành môn Pháp văn và một
tuần hai buổi tối Thành qua nhà Nhân. Lần nào cũng vậy, Nhân làm một ly nước
chanh thật ngon dành cho Thành. Tình cảm giửa Nhân và Thành nẩy nở một cách tự
nhiên. Tuy vậy, không ai nói với ai lời nào, và cả hai cũng không bao giờ hẹn
nhau ngoài giờ học. Dì Ánh là người cởi
mở, thấy vậy hay vậy, không cấm đoán mà cũng không khuyến khích. Má Nhân thích Thành, má nói Thành nghèo nhưng
có ý chí, lễ phép và không tính toán.
Khi Thành đến nhà Nhân học, dì Ánh, má và bà ngoại đều lánh mặt, nhường
phòng khách cho hai đứa học tập. Phòng khách nhà Nhân đơn giản, chỉ có vài ghế
mây lớn dùng làm như salon. Bàn học của Nhân trong một góc, bên cạnh bàn thờ
gia đình, có di ảnh của ông ngoại và ba Nhân. Có lần, Thành hỏi về ba Nhân,
nàng thú thật là không biết gì nhiều, chỉ khi đến tuổi hiểu biết thì má và bà
ngoại chỉ tấm hình đã ố vàng của một người còn dáng dấp thanh niên trên bàn thờ
và bảo đó là ba Nhân, ông mất khi nàng còn quá nhỏ. Nhân chưa bao giờ đến nhà
Thành, dù chỉ cách nhà chị Trang có hai căn, nàng không tìm được lý do gì để đến
nhà Thành.
Kỳ thi tú tài hai cuối năm được tổ chức ở Nha Trang, học
sinh các tỉnh từ Phan Thiết đến Phú Yên đều tụ về Nha Trang. Bọn Nhân phải khăn
gói ra thành phố biển. Kỳ thi chia làm ba đợt, đợt một của ban B gồm các môn
chính: triết, toán, lý hóa và sinh ngữ chính, đợt hai gồm các môn phụ: vạn vật,
công dân, sinh ngữ phụ, thí sinh nào đủ điểm đợt một sẽ vào vấn đáp hai môn
sinh ngữ và được chấm tiếp các môn phụ của đợt hai. Trong lúc chờ kết quả đợt một, chị Trang rủ cả
bọn đi chơi ở hòn Chồng, ghé Tháp Bà xin xâm. Chị biết tâm sự của Nhân nên cố tạo
điều kiện để Thành và Nhân có dịp nói chuyện riêng lẻ với nhau. Tuy vậy, Thành
năng nổ bao nhiêu trong công việc, lại cù lần bấy nhiêu về chuyện tình cảm. Trước
sau, Nhân chỉ nhận được một tình bạn thân thiết. Nàng chờ đợi một lời tỏ tình
dù bóng gió; một đụng chạm thân mật dù bất ngờ; một ánh mắt ngọt ngào dù vô
tình. Nhân biết rằng tình cảm của mình dành cho Thành rất đặc biệt, mừng rỡ xôn
xao khi gần nhau, mong chờ nhớ nhung khi xa cách, dù cả hai học chung lớp, chung
trường, gặp nhau hàng ngày. Nhân không chối đó là tình yêu đầu đời của nàng
dành cho Thành. Nhân cũng nhận thấy
Thành đối xử với mình có khác với những bạn khác phái khác, dịu dàng hơn, chiều
chuộng hơn và nàng nghĩ rằng đó là tình yêu mà Thành dành cho mình.
Năm
đó, Nhân rớt, Thành đậu tú tài hai, sửa soạn đi Sài Gòn học tiếp đại học. Hôm
Thành qua nhà giã từ, Nhân không nói được lời gì, chỉ ngồi buồn hiu cắn chéo áo
gối nhỏ ôm trong lòng ngăn những giọt nước mắt chực trào. Thành nói chuyện với
má và dì Ánh, chỉ thỉnh thoảng nhìn Nhân thật nhanh.
Khoảng
thời gian Thành học ở Sài Gòn, Nhân sống trong nhớ nhung và kỷ niệm, hình ảnh
Thành lúc nào cũng quanh quẩn. Nhân biết là mình đã yêu Thành mặc dù cả nàng và
Thành chưa một lần trao đổi những hẹn ước. Kỷ vật duy nhất của Thành mà nàng
còn giữ được là nét chữ của Thành bên lề và bên dưới mấy bài toán đại số của
Nhân làm sai, dạo hai đứa còn học chung. Nhân giữ nó như một bảo vật. Năm sau
Nhân thi lại Tú tài hai, nhưng cũng không qua khỏi. Dì Ánh khuyên, thôi thì góp
đơn thi vào Sư Phạm cấp tốc. Dì Ánh dạy học lâu năm, quen biết nhiều, nên khi
Nhân ra trường dì xin cho Nhân một chỗ ở ngay tỉnh lỵ, không phải đi xa. Nhân
an phận với cuộc sống mới, sinh hoạt đều đặn của một cô giáo tiểu học.
Tết
đầu tiên, Thành về quê ăn Tết, hai đứa lại gặp nhau, Nhân lính quýnh mừng ứa nước
mắt. Thành mua tặng cho nàng cuốn tuyển tập truyện ngắn của Lê Tất Điều, trang
đầu Thành viết “Để Nhân đọc những lúc một
mình”. Thành kể về cuộc sống mới của sinh viên, đời sống và sinh hoạt ở đại
học. Nhân chỉ ngồi nghe, cảm thấy ấm áp trong lòng, vui buồn theo nỗi vui buồn
của cuộc sống mới của Thành ở Sài Gòn… Từ đó, mỗi năm hai lần, hè và Tết, Nhân
gặp lại Thành, dõi theo cuộc sống tự lập đầy khó khăn của một sinh viên nghèo ở
nơi đô hội. Nhân mong chờ hè và Tết như trẻ con; đó là dịp mà Nhân có thể gặp lại
Thành, nghe Thành kể chuyện, những chuyện rất tầm thường trong cuộc sống, nhưng
luôn có ý nghĩa đối với Nhân. Lòng nàng rộng mở, hồi hộp chờ đón Thành. Với
Nhân, sự hiện diện của Thành như mùa
xuân đến với hoa cỏ, mỗi năm mùa xuân đến với Nhân hai lần, mùa xuân rực rỡ,
mùa xuân đầy nắng ấm, hạnh phúc.
Đôi
lần, Thành cũng hỏi Nhân về việc làm của nàng, và Nhân cũng chỉ nói được chừng
dăm ba câu là hết chuyện. Nhân không có khiếu nói chuyện, vả lại nàng muốn nghe
Thành kể chuyện hơn là nói về mình. Mỗi lần gặp nhau là Nhân lại háo hức nghe
Thành kể chuyện Sài Gòn. Chuyện gì Thành kể, Nhân đều thấy hấp dẫn, từ chuyện
sinh viên bãi khóa, biểu tình, ăn lựu đạn cay, đến chuyện Thành dạy kèm, bỏ báo
để sống tự lập ở Sài Gòn. Chuyện về cuộc sống xô bồ hay khắc khổ của sinh viên trong
đại học xá Minh Mạng, chuyện của mấy người bạn của Thành… Nàng háo hức nghe
chuyện, tưởng chừng như mình cũng đang cùng Thành sống, sinh hoạt trong cái không
khí ồn ào, hổn tạp đó.
Có
lần Thành nói:
-
Đại học xá như một lò luyện thép, nó có thể giúp cho sinh viên này trở thành cứng
cáp, vững mạnh cho cuộc sống sau này thì nó cũng có thể làm cho kẻ khác biến chất,
trụy lạc, thậm chí đi vào con đường tội lỗi. Đó là nơi có thể biến sinh viên
thành con người thép hay ác quỷ!
-
Thế Thành thuộc loại nào?
-
Tôi hả? chưa đến nỗi trụy lạc, biến chất… nhưng cũng khó trở thành siêu nhân.
Nhân
thầm mong Thành chỉ là Thành như ngày nào. Nàng mong ước cuộc sống mới không
làm Thành hư hỏng, mà cũng không hề muốn chàng trở thành những người vĩ đại
trong cái lò luyện thép đó, Nhân rất sợ mất Thành.
Cũng
có lần Nhân hỏi Thành về mấy cô bạn gái ở Sài Gòn, Thành chỉ cười trả lời:
-
Một thân lo còn chưa xong, đèo bòng chi cho mệt. Bạn thì có, nhưng tôi không
yêu được ai. Con gái ở Sài Gòn khó chiều chuộng, không giống như mấy cô ở tỉnh.
Nhân
cho đó là lời nhắn gửi đầy ẩn tình của Thành. Dù biết đó không phải là những lời
bày tỏ cảm tình trực tiếp, nhưng Nhân như cảm nhận những ngọt ngào của tình cảm
Thành dành cho nàng. Nhân sống trong sung sướng, lòng rộn ràng niềm vui.
Những
dịp Thành về thăm nhà, chị Trang hay tổ chức gặp mặt, khi thì tại nhà, khi trên
đất vườn nhà chị trên Phú Long. Lần nào chị cũng tạo cơ hội để Nhân săn sóc
Thành. Nhân thầm cám ơn chị Trang đã tế nhị tạo những tình cảm gắn bó giữa nàng
và Thành, và Nhân sung sướng, hạnh phúc trong những lần gần gủi hiếm hoi ấy. Một
lần ngồi bên lò than hồng trong giá lạnh cuối năm đổ bánh căn cho Thành, lò
than nóng ấm làm má Nhân hồng lên, trong lúc bất chợt, Thành nhìn nàng, buột miệng
nói:
-
Nhân đẹp quá, có cần gì phấn son! Tự nhiên vẫn là cái đẹp không phải dễ tìm.
Nhân
e thẹn cười sung sướng và cảm thấy hạnh phúc trong tưởng tượng đó là lời tỏ
tình của Thành.
***
Thế
rồi, Nhân thấy đất trời như đổ sụp khi nhận được thiệp báo tin hôn lễ của
Thành. Cô dâu của Thành hoàn toàn xa lạ và không hề nghe Thành nói tới. Từ trước, Nhân nghĩ đơn giản là tình cảm của
nàng chỉ dành riêng cho Thành và nàng cũng nghĩ, tình cảm của Thành là chỉ cho
nàng mà thôi, dù chưa bao giờ Thành nói lời tỏ tình. Tình cờ, chị Trang ghé thăm cứu được Nhân sau
khi Nhân nuốt trọn ống thuốc ngủ. Ngồi cạnh Nhân sau khi ở nhà thương về, chị
Trang nói:
-
Việc gì em phải làm vậy? Thành không xứng đáng với tình cảm của em rồi. Mà có
bao giờ Thành nói yêu em chưa?
Nhân
đau khổ lắc đầu, quả thật, bao tình cảm của Nhân chỉ là đơn phương, tình cảm của
Thành mà nàng cho là tình yêu chỉ là những gì do nàng suy đoán. Nhưng sao bao
lâu nay Nhân cũng không nói ra tình yêu của nàng với Thành. Mà làm sao nàng mở miệng bày tỏ trước tình
yêu của mình được chớ. Đáng lẽ Thành phải nhận ra tình cảm của nàng và nói trước
mới phải.
Hai
mươi bốn tuổi, Nhân thấy mình mất hẳn Thành rồi. Bao háo hức đợi chờ bỗng tan
thành mây khói, Nhân hụt hẫng, chới với. Mùa xuân của Nhân ra đi và có lẽ không
bao giờ trở lại…
Cuối
cùng, Nhân nhận lời lấy Bảo, cũng là bạn cùng lớp ngày xưa, bây giờ là sĩ quan
nhảy dù. Bảo biết tình cảm của Nhân đối với Thành trước kia, nên dù thích Nhân,
Bảo không mở miệng…Nhân cố xóa đi hình ảnh của Thành trong tâm tư, sống trọn đạo
với Bảo.
Tháng
Tư Bảy Mươi Lăm, Nhân mất tin tức của chồng, sau khi sanh bé Nghi được hơn một
tháng. Tin cuối cùng là đơn vị của Bảo rút khỏi Quảng Trị từ hai tháng trước…
Rồi
ba Nhân trở về, ông không chết như má Nhân đã nói mà ông đã tập kết ra Bắc từ
năm Năm Tư. Má Nhân biết và bàn thờ ba Nhân trong nhà chỉ để che mắt và tránh bị
quấy rầy. Hai tháng trước khi ông về thăm, công an đến nhà gần như mỗi ngày để điều
tra mọi người, mọi thứ. Họ muốn biết chắc gia đình của Nhân an toàn cho ba Nhân,
họ muốn biết chắc là má Nhân không có chồng khác khi ông vắng mặt. Bây giờ ông
là Thành Ủy của Thành phố Hồ Chí Minh, bây giờ ông trở về trong quyền và chức. Tuy vậy, ông chỉ về thăm để biết. Sau bao năm
không hy vọng gặp lại gia đình, ở ngoài đó ông đã thành hôn và có ba con. Vợ
ông cũng là nhân viên cao cấp trong ngành công an, cũng sắp vào công tác ở
thành phố. Má Nhân không nói gì như bao
năm bà đã im lặng chờ đợi. Bà chỉ hỏi
xin ông tìm thử trong các trại cải tạo tin tức của Bảo, chồng của Nhân. Ông không hứa và chỉ lập lờ nói: “Nếu nó chưa
chết và còn học tập đâu đó thì sau khi học tập tốt, nó sẽ về thôi…” Sau lần đó, ông không về thăm má Nhân nữa vì
công tác. Tuy nhiên ông có nói, nếu Nhân muốn, ông sẽ đưa mẹ con Nhân về thành
phố và giới thiệu cho Nhân đi dạy lại. Nhân từ chối vì thấy cách đối xử của ông
đối với má Nhân không xứng với tình cảm của bà đối với ông. Ngày ông tập kết má
Nhân chỉ hơn hai mươi, bà đã âm thầm che dấu, chịu đựng mọi khổ cực, nhục nhằn
để nuôi con. Bà không hề nghĩ đến việc bước thêm bước nữa dù không hề biết tin
tức gì, và cũng không có chút hy vọng gì về việc gặp lại chồng. Ấy vậy mà ông
trở về với một gia đình khác, một tổ ấm khác. Ông cũng chưa bao giờ đưa vợ con ông thăm viếng gia đình Nhân như một
xã giao tối thiểu, có thể vợ sau của ông không biết má Nhân còn sống, cũng có
thể bà ta không biết ông đã từng có gia đình. Nhân cho đó là một bất công.
Cuối
cùng, Nhân cũng được tin Bảo, tin duy nhất về Bảo kể từ tháng Tư Bảy Mươi Lăm.
Bảo chết trong trại cải tạo ở Hàm Tân. Nhân không mang được xác chồng về vì trại
không xác nhận có tên của Bảo trong số cải tạo viên của họ. Nhưng Nhân đã nhận được thư của chồng từ trại
Hàm Tân, do bạn của Bảo gửi về qua thân nhân nhờ chuyển lại, sau khi Bảo chết. Căn nhà bây giờ quá rộng vì chỉ còn dì Ánh và
mẹ con Nhân. Má và bà ngoại đã lần lượt ra đi. Cuộc sống ngày càng khó khăn dù
cả Nhân và dì Ánh đều là công nhân viên nhà nước.
Dì
Ánh móc nối vượt biên, nhưng dì không đến được bờ bến tự do. Dì lâm bệnh bất ngờ
khi ghe vượt biên xuất bến. Tuy vậy dì vẫn cương quyết xuống ghe, dù Nhân hết
nước mắt năn nỉ dì dời sang chuyến khác. Nhân đành phải thủy táng dì trên đường
đi.
Nhân
lên đảo cô đơn và không định hướng với con gái chỉ mới lên năm. Nhờ giấy tờ của Bảo, Nhân được bảo trợ và định
cư sớm ở Seattle. Nhân làm đủ mọi nghề để sống âm thầm và nuôi con, không màng
gì đến những phương tiện vật chất thừa mứa. Rồi bé Nghi cũng học xong đại học,
kiếm được việc làm ở Houston. Nhân theo con về Houston, nàng chỉ còn Nghi là
người thân duy nhất.
***
Nay
tình cờ gặp lại người đàn ông mà Nhân nghĩ là Thành trong siêu thị hôm ấy. Ông
ta bây giờ hói đầu, tóc đã hoa râm, nhưng vẫn còn những nét của Thành ngày xưa,
nhất là giọng nói, giọng nói đầy nhiệt tình của Thành khi chàng kể chuyện ngày
nào, giọng nói đã cuốn hút, làm mê đắm tâm hồn Nhân, giọng nói với những âm sắc
Nhân không bao giờ quên được.
Nhưng
nếu đó không phải là Thành, chỉ là người giống người? Linh cảm của Nhân chống lại
ý tưởng này. Cảm giác của Nhân khi bất chợt gặp ông ta giống như bị điện giật,
sững sờ và tê cứng trong vài giây khi ánh mắt chạm nhau. Rồi Nhân như bị cuốn
hút trong từ trường của ông ấy, không rời được, cho đến khi Nhân mất dấu ông ta
trong bãi đậu xe.
Nhưng
nếu ông ta chính là Thành, Nhân sẽ làm được gì. Xem chừng ông ta hạnh phúc quá.
Sống bên cạnh người vợ - mà Nhân nghĩ là người ấy từ dạo đó - cũng có vẽ hiền
lành và yêu chồng. Không biết Thành đã
có mấy con, mấy cháu. Trông cách ông ta nói chuyện với đứa cháu ngồi trên xe đẩy
hàng cho vợ, sao mà đầm ấm và hạnh phúc như vậy. Nhân không biết trong khoảng
thời gian xa nhau ấy, có bao nhiêu lần Thành nhớ đến Nhân, về người con gái đã
thầm trao tim mình cho một kẻ vô tình, đã đánh mất mùa xuân của đời mình.
Nhân
tần ngần trong gió lạnh của những ngày giáp Tết nơi xứ người. Mùa xuân của đất
trời đang trở lại theo nhịp tuần hoàn của vũ trụ nhưng mùa xuân trong Nhân một
lần đi, đi mãi, không trở lại.
Houston - 10/2008
(Phụ Nữ Diễn Đàn 300, thảng 3/2009)